Lịch Sử Đức Phật

Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni tóm tắt



Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama), một con người lịch sử, một thái tử thuộc dòng họ Thích Ca (Sakya), con trai của vua Tịnh Phạn (Suddhodana), sống tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) cách đây gần ba nghìn năm. Tất Đạt Đa sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak, tương ứng với tháng năm thường lịch, năm 624 trước công nguyên dưới gốc cây Vô Ưu (Ashoka tree) tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nước Nê Pan (Nepal) ngày nay. Siddhartha có nghĩa là con người toại nguyện có đầy đủ phước đức và trí tuệ. 


Brief history of Lord Sakyamuni Buddha

(Xin Bấm vào để xem slideshow)
(Please click and watch this slideshow)



Siddhārtha Gautama, who was a historical man, a prince of Sakya clan, son of King Suddhodana, lived in Kapilavastu castle nearly 3 thousand years ago. Siddhārtha was born on the full moon day of Vesak month, corresponding to the common calendar May, in the year of 624 BCE under the root of Ashoka tree in the Lumbini park, Nepal today. Siddhārtha means the fully-contented man with sufficient merit and wisdom.  


Sau khi thái tử sinh ra được 7 ngày, mẹ ngài, tức thánh Mẫu Ma-da (Māyādevī) mất. Người mẹ kế của ngài là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di (Mahāpajāpatī Gotamī) chăm lo. Khi tới tuổi 16, thái tử lập gia đình với công chúa Da Du Đà La (Yasodharā) và có một người con trai duy nhất tên là La Hầu La (Rāhula).


Seven days after the prince was born, his mother, Queen Māyādevī, died. His stepmother, who was Mahāpajāpatī Gotamī looked after him. When he reached at the age of 16, he married princess Yasodharā and had an only son named Rāhula   



Sống trong cảnh nhung lụa, giàu sang và sung sướng, nhưng thái tử vẫn cảm thấy không tự do và thoái mái, cùng với người thân cận của mình tên là Sa Nặc (Channa), thực hiện một chuyến đi ra khỏi 4 cửa thành hoàng cung để thăm các cảnh thật bên ngoài. Ra khỏi cửa thành, đi về hướng Đông, thái tử và Sa Nặc gặp người già; đi về hướng Tây, hai người gặp người bệnh; đi về hướng Nam, gặp người chết; và đi về hướng Bắc, gặp vị Khất sĩ. Một trong bốn cảnh thật mà thái tử chứng kiến, cảnh thật thứ tư không những là đề tài thiền quán cho thái tử, mà còn tạo nguồn cảm hứng cho thái tử sau này trở thành vị ẩn sĩ không nhà, sống không gia đình và không bị ràng buộc bởi gia đình và con cái.

Living in the lap of luxury, wealth and happiness, but the prince, who still felt unfree and uncomfortable, along with his intimate named Channa, made a trip out of the four gates of the royal palace to visit the real world outside. Getting out of the gate, going to the East, the prince and Channa met an old person; going to the West, they met a sick person, going to the South, they saw a dead person; and going to the North, they met a mendicant. One of the four real scenes the prince witnessed, the fourth scene was not only a comtemplative subject for him, but it also created the inspiration for him later on to become a homeless monastic, living without family and not being bound by family and children.



Xuất gia năm 29 tuổi, học đạo với hai vị đạo sĩ Ālāra KalāmaUddaka Rāmaputta, trải qua 6 năm tu khổ hạnh với 5 anh em của ông Kiều Trần Như (Kondañña), nhà tu Tất Đạt Đa xét thấy rằng việc tu khổ hạnh và cực đoan của họ đã làm chướng ngại cho việc chứng đạo. Người quyết định chọn cho mình lối tu không tham đắm dục lạc và không khổ hạnh ép xác, tức là hướng thực hành Trung Đạo (majjhimāpaipadā) với con đường Thánh có tám làn xe chạy: Chánh Kiến (Sammā Diṭṭhi), Chánh Tư Duy (Sammā Sakappa), Chánh Ngữ (Sammā Vācā), Chánh Nghiệp (Sammā Kammanta), Chánh Mạng (Sammā Ājīva), Chánh Tinh Tấn (Sammā Vāyāma), Chánh Niệm (Sammā Sati),Chánh Định (Sammā Samādhi).[1]   


Leaving home for religious life at the age of 29, learning religion from two ascetics, Ālāra Kalāma and Uddaka Rāmaputta, spending six years practicing asceticism with his five brothers of elder Kondañña, hermit Siddhārtha saw that their religious attainments were compromised by their extreme and ascetic practices. He decided to choose him the way of cultivation without self-indulgence and self-mortification, namely the direction of taking the Middle Way – the noble eightfold Path with the eight-lane freeway: Right View (Sammā Diṭṭhi), Right Thought (Sammā Sakappa), Right Speech (Sammā Vācā), Right Action (Sammā Kammanta), Right Livelihood (Sammā Ājīva), Right Effort (Sammā Vāyāma), Right Mindfulness (Sammā Sati), and Right Concentration (Sammā Samādhi).[2]



Sau khi dùng bát cháo sữa do nàng Su Dà Ta (Sujata) cúng dường, nhận bó cỏ Kiết tường (Kusa) của người nông phu, đến Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), Bồ tát Tất Đạt Đa kiên quyết ngồi thiền định dưới cội Bồ đề 49 ngày đêm cho tới khi thành chánh quả. Ngài thực tập thiền định từ thấp tới cao, quán niệm hơi thở ra vào đều đặn (Anapana Sati), an trú Sơ Thiền (Jhāna), Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Không Vô Biên Xứ Định (Akasanantya Yatana), Thức Vô Biên Xứ Định (Vijnanantya Yatana), Vô Sở Hữu Xứ Định (Akincanna Yatana), Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định (N'evasanna Nasanna Yatana), Diệt Thọ Tưởng Định (Nirodha Samapatti).[3]


After having eaten a milky porridge bowl given him by a young lady named Sujata, received a bunch of auspicious grassess (Kusa) from a farmer, arrived at Bodhgaya, Bodhisattva Siddhārtha determined to sit in meditation under the root of a Bodhi tree for 49 days and nights, until attaining the fruits of enlightenment. He who practiced meditation from low to high degrees contemplated in-and-out breath regularly, dwelled in the First Meditation (Jhāna), the Second Meditation, the Third Meditation, the Fourth Meditation, Concentration on the abode of infinite space (Akasanantya Yatana), Concentration on the abode of infinite consciousness (Vijnanantya Yatana), Concentration on the abode where nothing exists at all (Akincanna Yatana), Concentration on neither perception nor non-perception (N'evasanna Nasanna Yatana), the Cessation of the Annihilation of Concentration (Nirodha Samapatti).[4]    


Đêm thứ 49, canh đầu, Bồ Tát chứng Túc Mạng Minh (Pubbe nivāsānussati māna), biết rõ nhân quả nhiều đời trước của Ngài; canh giữa, Ngài chứng Thiên Nhãn Minh (Cutūpapāta māna), biết rõ nghiệp báo nhiều đời trước của chúng sanh; canh cuối, khi sao mai vừa mọc, Ngài chứng Lậu Tận Minh (Āsavakkhaya māna), giác ngộ viên mãn (Anuttara samma sambodhi) – phát hiện ra bốn sự thật: Khổ (Dukkha), Khổ tập (Dukkha samudaya ariya sacca), Khổ diệt (Dukkha nirodha ariya sacca), Con đường đưa đến khổ diệt (Dukkha nirodha gāmini  patipadā ariya sacca). Cuối cùng, Bồ tát thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) tại Bồ Đề Đạo Tràng lúc 35 tuổi.


On 49th night, in the first night watch, Bodhisattva who obtained “the Reminiscence of Past Births” (Pubbe nivāsānussati māna) knew the causes and effects of his previous lives clearly; in the middle night watch, he who obtained “Clairvoyant supernormal vision” (Cutūpapāta māna) knew karmic retribution of human beings' previous  lives clearly; in the last night watch, when morning star arose, he who obtained “the Comprehension of the Cessation of Corruptions” (Āsavakkhaya māna) attained perfect enlightenment (Anuttara samma sambodhi), discorved the four noble Truths: Suffering  (Dukkha), the Origin of Suffering (Dukkha samudaya ariya sacca), the Cessation of Suffering (Dukkha nirodha ariya sacca), and the Path leading to the Cessation of Suffering (Dukkha nirodha gāmini  patipadā ariya sacca). Finally, Bodhisattva became the Buddha called Sakyamuni in Bodhigaya at the age of 35.  

Sau khi Bồ Tát thành Phật, Phạm thiên Sahampati thưa thỉnh đức Phật ba lần để đi hoằng pháp và giáo hóa chúng sanh. Cuối cùng, đức Phật đồng ý những lời thỉnh mời của Phạm thiên, và tìm đến hai vị đạo sĩ trước đây để truyền đạo, nhưng cả hai vị đều qua đời. Đi đến vườn Lộc Uyển (Migadava) ở Sarnath, đức Phật nói bài Pháp đầu tiên (Dhamma Cakka Pavattana) cho năm người bạn đồng tu. Cả năm người này đều thấm nhuần diệu pháp và chứng quả A La Hán (Arhanta). Như vậy, Phật, Pháp và Tăng được hình thành tại đây.

After Bodhisattva became the Buddha, Brahma Sahampati requested him three times to preach the Dharma and to instruct human beings. He finally agreed with the latter’s requests, and sought out two previous ascetics to spread the Dharma, but both of them died. Going to Deer Park (Migadava) in Sarnath, the Buddha preached the First Sermon (Dhamma Cakka Pavattana) to five fellow practitioners. They all understood the wonderful Dharma fully and obtained Arhanta. Thus, the Buddha, Dharma and Sangha are formed there.


Đức Phật và Tăng chúng chủ yếu nương vào thiền định để nuôi dưỡng tâm, nương vào của bố thí của người đàn việt để nuôi dưỡng thân, thích an trú vào môi trường thiên nhiên, và đạt được sự tu chứng, an lạc và hạnh phúc của tự thân để giáo hóa tha nhân. Sống đời sống không gia đình, quý Ngài có nhiều thời gian để tu tập và phục vụ chúng sanh, nương vào tình thầy trò, tình pháp lữ, tình đồng tu, tình hộ pháp và hoằng pháp để làm lợi lạc cho quần sanh.

The Buddha and His Sangha, who mainly depended on meditation – concentration, and on patrons’ alms-giving to nurture their minds and bodies, relished dwelling in the natural environment, and achieved self-attainment, joy and happiness all by themselves to instruct other people. Living their familyless lives, they who had much time to cultivate and serve human beings relied on sentiment of teacher and students, that of Dharma friends, that of fellow monks, sentiment of protecting the Dharma and propagating it to benefit living things and living beings.

Tiếp theo, nhà giàu có Da Xá (Dasa), gia đình Da Xá, các bạn, và các người thân quen của Da Xá được đức Phật giáo hóa và làm đệ tử của Ngài. Trong số đó, những vị đệ tử đức hạnh và nổi tiếng nhất được liệt kê dưới đây là:

Next, the wealthy millionaires Dasa, his family, his friends and acquaintances were instructed by the Buddha, and made His disciples. Among them, His most virtuous and renowned disciples are listed below:

Tôn giả Xá Lợi Phất (Sāriputta) – Vị có trí tuệ đệ nhất,

Tôn giả Mục Kiền Liên (Moggallana) – Vị có lòng hiếu thảo và thần thông đệ nhất,

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp (Maha Kassapa) – Vị Tổ Sư tu hành khổ hạnh đệ nhất,

Tôn giả Tu Bồ Đề (Subhuti) – Vị quán chiếu tánh không (Suññatā) đệ nhất,

Tôn giả Phú Lâu Na (Purana) – Vị giảng Sư tài giỏi thuyết pháp đệ nhất,

Tôn giả Ca Chiên Diên (Kaccayana) – Vị luận Sư tài giỏi luận giải Phật pháp đệ nhất,

Tôn giả A Na Luật (Anurudha) – Vị có cái nhìn không chướng ngại, tức Thiên nhãn đệ nhất,

Tôn giả Ưu Ba Li (Upali) – Vị luật Sư gương mẫu trì Luật đệ nhất

Tôn giả A Nan (Ananda) – Vị có khả năng nghe nhiều, tiếp thu, và nhớ kỹ Phật pháp đệ nhất,

Tôn giả La Hầu La (Rahula) – Vị có hạnh nhẫn nhục, oai nghi và tế hạnh đệ nhất.

The honored Elder Sāriputta – the chief Monk with supreme wisdom,

The honored Elder Moggallana – the chief Monk with supreme piety and psychic power,

The honored Elder Maha Kassapa – the chief Patriarch of supreme ascetic cultivation,

The honored Elder Subhuti – the chief Contemplator of supreme emptiness (Suññatā),

The honored Elder Purana – the chief brilliant Preacher of the supreme Dharma preaching,

The honored Elder Kaccayana – the chief outstanding Commenter of supreme Buddhadharma interpretation 

The honored Elder Anurudha – The chief Monk with unobstructed vision, that is, supreme Clairvoyant supernormal vision,

The honored Elder Upali – the chief exemplary Lawyer of supreme Vinaya or Discipline observance,

The honored Elder Ananda – the chief Monk with the ability to hear a lot, acquire, and remember the Buddhadharma in detail supreme,

The honored Elder Rahula – the chief Monk with the supreme patience, solemn dignity and fine action.


Khi các đệ tử của đức Phật càng ngày càng đông, đức Phật động viên và khuyên bảo: “Này các Thầy Tỳ Kheo! Hãy ra đi nhiều hướng khác nhau để hoằng dương chánh pháp và cứu độ chúng sanh, hãy đem sự tu tập, an lạc và hạnh phúc của tự thân để giáo hóa tha nhân. Vì an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài người, các vị hãy truyền bá chánh pháp cho muôn loài. Giáo pháp của Như Lai toàn hảo ở chặn đầu, chặn giữa, và chặn cuối, cả tinh thần lẫn văn tự. Các vị hãy công bố đời sống thánh thiện và hòa bình cho số đông trên khắp hành tinh này.”(Xem Mahāvagga 19 – 20).

When His disciples became a large crowded, the Buddha encouraged and counseled: “O Bhikkhu! Go forth to many different directions to propagate the Dharma and save sentient beings, bring your own cultivation, joy and happiness to instruct other people. Out of peace and happiness for devas and human beings, spread the Dharma to all beings. The tathāgata’s teachings are perfect in the beginning, perfect in the middle, perfect in the end, both in the spirit and in the letter. Proclaim the holy and peaceful life to the many all over the planet.” (See Mahāvagga 19 – 20).

Về sau, đức Phật giáo hóa rất nhiều hạng người khác nhau trong mọi tầng lớp xã hội, như các vua quan, quần thần, thương gia, tôi tớ, thậm chí những kẻ hốt phân, kẻ sát nhân và kỷ nữ. Giáo pháp và Tăng đoàn của đức Thế Tôn đều có khả năng dung nhiếp những người đến từ các giai cấp, tôn giáo, màu da, chủng tộc… khác nhau. Những ai có đủ duyên tu, học, hiểu, thực hành, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình một cách chánh niệm và tỉnh giác, thì họ có thể đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.

Afterward, the Buddha taught and converted very many different kinds of people, of walks of life, such as kings, mandarins, merchants, servants, even excrement-collectors, murderers and courtesans. The World-Honored One’s Dharma and His Sangha have the capability to accept people from different castes, religions, skin colours, races, etc. Those who have enough conditions to cultivate, to learn, to understand, to practice, and to apply the Buddhadharma in their daily lives mindfully and awakeningly, can bring peaceful joy and authentic happiness to themselves and to others right here and now in the present life.

Các đệ tử của đức Phật chủ yếu bao gồm hai Chúng: xuất gia và tại gia. Cả hai chúng này đều hỗ trợ với nhau như hình với bóng làm yếu tố then chốt để cùng nhau đem đạo Phật đi vào cuộc đời và giúp đời thêm vui bớt khổ.

The Buddha’s disciples mainly include two Assemblies: Assembly of Monastics and that of lay Buddhists. Both of these Assemblies that support one another as an image and its shadow make the key factors together bring Buddhism into life, and help add happiness to life and lessen suffering.

Hoằng dương chánh pháp trong 45 năm, tất cả những gì đức Phật dạy như nắm lá cây trong lòng bàn tay nhằm giúp con người nhận diện và chuyển hóa khổ đau, và giúp họ sống đời sống an vui và hạnh phúc ngay tại thế gian này.

Propagating the Dharma in 45 years, all that the Buddha taught is like a handful of tree leaves in the palm of his hand, is to help people recognize suffering and transform it, and to help them live their peaceful and happy lives right in the present world...


Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật khuyên dạy các đệ tử: “Hỡi các đệ tử! Các pháp hữu vi đều vô thường và biến đổi. Các vị hãy tinh tấn tu học và thực hành phật pháp nhiều hơn nữa, để đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân. Đây là những lời giáo huấn tối hậu của Ta cho các người.” [Xem Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahàparinibbàna sutta) II số 16].

Before entering Nirvana, the Buddha counseled His disciples: “”O disciples! Everything is impermanent and changing. Make efforts to cultivate and practice the Buddha Dharma more, to bring joy and happiness to yourselves and to others. These are My ultimate teachings for you.” (See Dìgha NikāyaMahāparinibbāna sutta Part II, 16).

Trụ thế ở đời 80 năm, khoảng năm 544 trước công nguyên, lúc 80 tuổi, đức Phật nhập diệt tĩnh lặng, nằm nghiêng mình về hông phải, chân trái duỗi thẳng trên chân phải, đầu quay về hướng Bắc dưới hai cây song thọ tại rừng Sa La (Sala) tại quận Câu Thi Na (Kushinagar), Ấn Độ ngày nay.

Existing on this earth for eighty years, in about 544 BCE, at the age of 80, the Buddha who passed away peacefully lay on his right hip, left leg stretched out on right leg, his head turned to the North under two ancient trees in the Sala forest in Kusinagar District, India today.

Để tỏ lòng tôn kính và tri ân sâu sắc đối với đức Thế Tôn, mỗi người đệ tử của Ngài phải tự mình sống đúng với chánh pháp bằng cách không làm các việc ác, hãy làm các việc lành, giữ thân tâm thanh tịnh. Mỗi người chúng ta phải là món quà tu tập, hòa bình, an vui, và hạnh phúc đích thực để hiến tặng cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này. 

Kính chúc Quý vị thân tâm thường an lạc và thấm nhuần giáo pháp của đức Thế Tôn!



Thích Trừng Sỹ


Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni tóm tắt-Thích Trừng Sỹ
                                                                
To pay homage and profound gratitude to World-Honored One, each of His disciples must himself or herself live right with the Dharma by not doing the evil, by doing the good, by keeping a pure body and mind. Each of us has to be a gift of cultivation, peace, joy, and true happiness to be dedicated to himself or herself and to others right in this life.

May you all be well and imbued with the Dharma of World-Honored One!

By Ven. Thich Trung Sy

(Click to watch this movie "Brief history of Lord Sakyamuni Buddha" with reaing voice in Vietnamese and English)



[1]  Xem Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Sutta) thuộc Tương Ương Bộ (Samyutta Nikaya, 56: 11).
[2]  See the Discourse on the Turning of the Dhamma Wheel (Dhammacakkappavattana Sutta) of Connected Discourses on the Truths
   (Samyutta Nikaya, 56: 11).
[3]  Xem S. III. 28. Sāriputtasayutta;  CDB. III. Chap. VII. 1018.
[4]  See S. III. 28. Sāriputtasayutta;  CDB. III. Chap. VII. 1018.

About Thích Trừng Sỹ

My photo
United States
Đây là trang nhà của Thich Trừng Sỹ Email: thichtrungsy123@gmail.com, sonyhappy123@gmail.com . Thầy Trừng Sỹ sinh tại Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam. Xuất gia tại Chùa Linh Nghĩa (Cell Phone: 0905989707), Diên Khánh, Khánh Hòa, Việt Nam năm 1987. Đệ tử của Hòa thượng thượng Như hạ Tịnh. Thọ giới Sa di tại bổn Tự năm 1989. Thọ giới lớn tại Chùa Long Sơn, Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam năm 1993. Tốt nghiệp Trung Cấp Phật học tại Nha Trang, Khánh Hòa - khóa I hạng II (1990-1994). Tốt nghiệp Cử Nhân Phật học tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam - HCM city - khóa IV, hạng III (1997-2001). Tốt nghiệp Thạc Sĩ Phật học tại Đại Học Đề-li, Ấn Độ - hạng I (2002-2004). Tốt nghiệp Phó Tiến Sĩ Phật học tại Đại Học Đề-li, Ấn Độ, hạng I (2004-2005). Tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật học tại Đại Học Đề-li, Ấn Độ (2006 - 2009). Thầy được mời thuyết giảng tại Đại học Seattle-Washington với các đề tài "Thiền Tập" và "Mối quan hệ giữa Thầy và Trò trong Giáo Dục Phật Giáo năm 2011." Năm 2012-2014, Thầy Sinh hoạt ở Chùa Linh Sơn Austin, Leander, Texas. Hiện nay, Thầy làm Trụ Trì Chùa Pháp Nhãn 136 The Ranch RD. Del Valle, TX 78617, và hoằng Pháp tại Hoa Kỳ.